Triển khai chương trình hành động Nghị quyết 11-NQ/TW về phát triển vùng trung du và miền núi Bắc Bộ

Sáng ngày 27/8/2022, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lào Cai, Văn phòng Chính phủ tổ chức Hội nghị triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Với chủ đề “Tiềm năng – Cơ hội – Hợp tác phát triển”, Hội nghị được tổ chức tại TP. Lào Cai (tỉnh Lào Cai), dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính

Với chủ đề “Tiềm năng – Cơ hội – Hợp tác phát triển”, Hội nghị được tổ chức tại TP. Lào Cai (tỉnh Lào Cai), dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, và sự tham gia của Phó thủ tướng thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh, lãnh đạo các bộ ngành, địa phương, các hiệp hội doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Có khoảng 700 đại biểu sẽ tham dự Hội nghị này.

Đây là hội nghị “ba trong một”, được tổ chức không chỉ với mục đích công bố Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, mà còn xúc tiến đầu tư, kêu gọi sự quan tâm của các nhà đầu tư, hiệp hội doanh nghiệp trong nước, quốc tế, các đối tác phát triển trong việc đồng hành với Chính phủ trong triển khai các chương trình, dự án đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế – xã hội của Vùng.

****

Phát biểu khai mạc, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn cho biết, ngày 10/2/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ (TD&MNBB) đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Trong đó, đã xác định các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc phát huy thế mạnh, tiềm năng, tạo đột phá trong phát triển kinh tế – xã hội bền vững, gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, củng cố vai trò “phên dậu” và “lá phổi” đối với đất nước của Vùng TD&MNBB trong thời gian tới.

Để triển khai hiệu quả và sớm đưa Nghị quyết vào cuộc sống, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 96/NQ-CP về Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị nhằm thống nhất trong công tác chỉ đạo của các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương vùng trung du và miền núi Bắc Bộ trong việc quán triệt, triển khai quyết liệt thực hiện Nghị quyết; cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để tổ chức triển khai thực hiện; phát huy vai trò kiến tạo, điều phối của Chính phủ theo nguyên tắc phân công, phân nhiệm rõ ràng, tập trung, dân chủ, tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ gắn với trách nhiệm của từng Bộ, cơ quan trung ương, địa phương trong Vùng.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn phát biểu khai mạc Hội nghị (Ảnh: Đức Trung)

Cụ thể, chương trình hành động của Chính phủ đã xác định các mục tiêu và 21 chỉ tiêu cụ thể về phát triển kinh tế, xã hội, môi trường của Vùng đến năm 2030, trong đó có một số mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng như: tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2030 đạt khoảng 8-9%; quy mô kinh tế Vùng đến năm 2030 đạt 2.100 nghìn tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 140 triệu đồng/năm; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm bình quân 2-3%/năm, 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, tỷ lệ che phủ rừng khoảng 54-55%,…

Bộ trưởng Trần Văn Sơn cho biết, phấn đấu đến năm 2045, vùng TD&MNBB là vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện, là hình mẫu phát triển xanh của cả nước, trong đó có khoảng 50% số tỉnh nằm trong nhóm các tỉnh phát triển khá; bản sắc văn hóa các dân tộc được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc; tổ chức đảng và hệ thống chính trị vững mạnh; khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường.

****

Chương trình hành động đã đưa ra 06 nhóm nhiệm vụ, giải pháp:

Một là, đẩy mạnh công tác quán triệt, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận của xã hội trong xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Hai là hoàn thiện thể chế phát triển và liên kết vùng, trong đó tập trung hoàn thành lập và phê duyệt quy hoạch Vùng và quy hoạch các địa phương trong Vùng; thành lập và ban hành quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối vùng; ưu tiên phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông, hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ, hiện đại và thông minh, gắn với phát triển các hành lang kinh tế.

Ba là phát triển kinh tế nhanh, bền vững với trọng tâm là đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ và chuyển đổi số; phát triển các ngành, lĩnh vực có thế mạnh và tiềm năng của vùng; đồng thời, tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, đất đai, bảo vệ môi trường, ứng phó với thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Bốn là phát triển văn hóa – xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực cho đồng bào dân tộc thiểu số, coi đây là một trong những khâu đột phá cho phát triển nhanh và bền vững Vùng. Tập trung nguồn lực và khuyến khích xã hội hóa thực hiện các cơ chế, chính sách trợ giúp xã hội, chương trình hỗ trợ sinh kế, hỗ trợ nhà ở gắn với thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, tạo việc làm và bảo đảm an sinh xã hội.

Năm là bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh.

Sáu là tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.

Các nhiệm vụ, giải pháp nêu trên được cụ thể hóa thành 17 nhiệm vụ, đề án, 33 dự án hạ tầng giao thông kết nối thực hiện trong giai đoạn 2021-2030 với sự phân công và lộ trình thời gian thực hiện rõ ràng. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đang chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng Đề án về cơ chế, chính sách đặc thù đối với Vùng, giao cho các cơ quan chức năng xây dựng 03 đề án thí điểm trên địa bàn về phát triển khu kinh tế cửa khẩu qua biên giới, thí điểm mô hình quản lý rừng bền vững dựa vào cộng đồng, thí điểm cơ chế chia sẻ nguồn nước.

Toàn cảnh Hội nghị (Ảnh: Đức Trung)

****

Với những quan điểm, mục tiêu, tầm nhìn mới đặt ra, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đứng trước các vận hội mới, cụ thể:

1. Quy hoạch vùng TD&MNBB thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 với cách tiếp cận tích hợp, phối hợp đa ngành, nhấn mạnh sắp xếp không gian phát triển, coi trọng việc các bộ, ngành và địa phương phối hợp cùng xử lý, giải quyết các vấn đề mang tính liên ngành, liên vùng… sẽ mở ra các cơ hội phát triển mới, định hình các giá trị mới cho Vùng nhằm đạt các mục tiêu tổng quát gồm:

– Phát huy mọi tiềm năng, lợi thế để phát triển Vùng nhanh, toàn diện và bền vững;

– Huy động mọi nguồn lực đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, công trình quan trọng, tạo sự đột phá, có tác động lan tỏa lớn cho phát triển kinh tế – xã hội của Vùng.

– Phát triển công nghiệp, dịch vụ, kinh tế cửa khẩu gắn với kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, đô thị đồng bộ, hiện đại, bảo đảm khai thác hợp lý, bảo vệ và phát triển các nguồn tài nguyên, môi trường sinh thái. Xây dựng, phát triển nền nông nghiệp hiệu quả cao, sản xuất an toàn, hữu cơ, xanh, sạch, liên kết theo chuỗi giá trị bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, gắn kết với xây dựng nông thôn mới.

– Tạo không gian phát triển vùng hiệu quả, hình thành được hệ thống các trung tâm đô thị động lực, khu vực bảo tồn và hạn chế phát triển, mạng lưới kết cấu hạ tầng đồng bộ, kết nối giữa các địa phương trong vùng và liên vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các địa phương trong Vùng với các hành lang kinh tế, khai thác hiệu quả lợi thế văn hóa và điều kiện tự nhiên.

Quy hoạch vùng thời kỳ mới sẽ giúp cho các địa phương chủ động liên kết chặt chẽ trong và ngoài vùng, bổ sung hỗ trợ nhau cùng chia sẻ lợi ích, cùng phát triển.

2. Đẩy mạnh liên kết, hợp tác phát triển của các địa phương trong Vùng thông qua công tác lập quy hoạch, nhất là thông qua thực hiện các nội dung, lĩnh vực, hoạt động điều phối vùng mới được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 999/QĐ-TTg ngày 23/8/2022.

Đây là lần đầu tiên Hội đồng điều phối vùng TD&MNBB được thành lập, có cơ cấu tổ chức gồm Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh làm Chủ tịch, một số Bộ trưởng làm Phó Chủ tịch, các Ủy viên là Lãnh đạo các Bộ, ngành trung ương và Chủ tịch của 14 tỉnh trong Vùng, thể hiện quyết tâm thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp về liên kết vùng như Nghị quyết số 11- NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 96/NQ-CP của Chính phủ đã đề ra là “Đổi mới tư duy phát triển, nhất là liên kết vùng”, “Xây dựng cơ chế liên kết và phối phát triển vùng hiệu lực, hiệu quả”.

Thông qua Hội đồng điều phối vùng, các cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, nhiệm vụ, dự án có quy mô vùng và có tính chất liên kết vùng, thúc đẩy phát triển xanh, bền vững, toàn diện vùng trung du và miền núi phía Bắc, góp phần thực hiện thành công các nhiệm vụ mà Bộ Chính trị và Chính phủ đã đề ra.

3. Tận dụng cơ hội để phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là mạng lưới giao thông kết nối thông qua các trục cao tốc, tiền cao tốc dọc, ngang như: Hà Nội – Hòa Bình – Sơn La; Trà Lĩnh – Đồng Đăng; Chợ Mới – Bắc Kạn; cửa khẩu Hữu Nghị – Chi Lăng (Lạng Sơn); tuyến nối Hà Giang với cao tốc Nội Bài – Lào Cai; Tuyên Quang- Phú Thọ; tuyến Đoan Hùng – Chợ Bến và đường Vành đai 5 (qua Bắc Giang, Thái Nguyên); tuyến cao tốc Nội Bài – Lào Cai giai đoạn 2 và các đường vành đai biên giới. Bên cạnh đó, triển khai nghiên cứu đầu tư và nâng cấp một số cảng hàng không trong vùng như Lai Châu, Điện Biên, Nà Sản, Sa Pa; phát triển hệ thống đường sắt, đường thủy, tạo điều kiện kết nối nội vùng, kết nối liên vùng với vùng Thủ đô, vùng Đồng bằng sông Hồng và kết nối với thị trường Trung Quốc, từ đó tạo động lực mạnh mẽ đối với sự phát triển của Vùng.

4. Hình thành và phát triển các hành lang kinh tế dọc theo các trục giao thông kết nối với các hành lang kinh tế Việt Nam – Trung Quốc, kết nối với Thủ đô Hà Nội và cảng biển khu vực như Hà Nội – Bắc Giang -Lạng Sơn – Cao Bằng; Hà Nội – Hòa Bình – Sơn La – Điện Biên; Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng; Hà Nội – Thái Nguyên – Bắc Kạn; Phú Thọ – Vĩnh Phúc – Hà Nội – Hưng Yên – Hải Dương – Hải Phòng; …

Hình thành 05 cực tăng trưởng hạt nhân quan trọng trong phát triển kinh tế vùng gồm: thành phố Thái Nguyên, Bắc Giang, Lào Cai, Sơn La, Lạng Sơn; hình thành và phát triển các chuỗi liên kết khu vực động lực của vùng tại vành đai Bắc Giang – Thái Nguyên – Phú Thọ gắn với Vùng Thủ đô; các chuỗi liên kết, trung tâm kinh tế – đô thị vùng gắn với các đô thị vùng biên giới và các cụm liên kết, trung tâm sản xuất trong các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch, nông nghiệp để trở thành động lực tăng trưởng cho cả vùng.

5. Trên cơ sở tầm nhìn, định hướng, mục tiêu phát triển dài hạn của Vùng, với kết cấu hạ tầng được tập trung đầu tư đồng bộ, các doanh nghiệp và nhà đầu tư có nhiều cơ hội mở rộng sản xuất, kinh doanh, đầu tư trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo; nông nghiệp hiệu quả cao, hữu cơ, xanh, sạch, đặc sản; du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng gắn với bản sắc dân tộc trong Vùng.

6. Trên cơ sở tầm nhìn, định hướng, mục tiêu phát triển dài hạn của Vùng, với kết cấu hạ tầng được tập trung đầu tư đồng bộ, các doanh nghiệp và nhà đầu tư có nhiều cơ hội mở rộng sản xuất, kinh doanh, đầu tư trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo; nông nghiệp hiệu quả cao, hữu cơ, xanh, sạch, đặc sản; du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng gắn với bản sắc dân tộc trong Vùng.

7. Ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, nhất là thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, gắn với chuyển đổi số và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo sẽ tạo điều kiện để cơ cấu lại và phát triển có hiệu quả các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế của Vùng, nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm chủ lực của Vùng, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong Vùng.

8. Phát triển và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc phù hợp với phát triển kinh tế, xã hội. Các di tích lịch sử – văn hóa được bảo tồn, tôn tạo; di sản văn hóa các dân tộc thiểu số được giữ gìn và phát huy tạo ra các không gian văn hóa đa dạng, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân.

9. Phát triển kinh tế xã hội kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. Hợp tác chặt chẽ với nước láng giềng về quốc phòng, an ninh, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển bền vững.

****

Theo Bộ trưởng Trần Văn Sơn, chúng ta có thể tin tưởng rằng, với sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, được thể hiện bằng Nghị quyết số 11-NQ/TW là Nghị quyết đầu tiên được Bộ Chính trị ban hành trong 6 vùng kinh tế – xã hội sau quá trình tổng kết các nghị quyết của Bộ Chính trị và các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể giao cho các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện, cùng với các tiềm năng, cơ hội nêu trên, và với sự quyết tâm, nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và người dân trong Vùng, chúng ta có thể biến khó khăn, thách thức thành cơ hội mới, biến những tiềm năng, lợi thế thành động lực phát triển để Vùng Trung du và miền núi phía Bắc thực sự phát triển đột phá, đón nhận làn sóng đầu tư mới, đạt được mục tiêu phát triển xanh, bền vững và toàn diện trong thời kỳ tới, người dân được hạnh phúc với một cuộc sống tốt đẹp hơn.

****

Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNN) Lê Minh Hoan cho rằng, đặc thù địa hình và địa lý tự nhiên, giao thông kết nối cùng khó khăn khác không hẳn ngăn cản cho sự phát triển kinh tế chung và ngành nông nghiệp nói riêng của Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ.

Từ cách nhìn khác, đó còn là động lực để tạo nên những khác biệt riêng trong nguồn lực phát triển chuyển hóa thành lợi thế khai thác, phát huy một cách phù hợp năng động, sáng tạo hòa cùng nguồn vốn văn hóa, nguồn vốn xã hội vô giá không giới hạn sẽ tạo điểm nhấn đặc sắc cho kinh doanh sản phẩm nông nghiệp, tiếp thêm sức bật mới cho vùng.

Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNN) Lê Minh Hoan cho rằng, có thể cân nhắc thêm cách tiếp cận kinh tế nông nghiệp dịch vụ dựa trên trải nghiệm (Ảnh: Đức Trung)

Thay vì đặt quá nặng vào kết quả mang tính sản xuất như sản lượng, quy mô, hay trông chờ vào các giải pháp mang tính quy mô công nghiệp như sản xuất hộ nông dân, sản xuất tập trung lớn, các nhà máy, dây chuyền công nghiệp mà thực tế không có quá nhiều điều kiện thuận lợi để triển khai, có thể cân nhắc thêm cách tiếp cận kinh tế nông nghiệp dịch vụ dựa trên trải nghiệm.

Phát triển nông nghiệp theo hướng trải nghiệm, căn cứ nhu cầu của du khách, người tiêu dùng để xây dựng các sản phẩm mang tính đặc thù. Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh du lịch, dịch vụ trong nông nghiệp trước mắt phải gắn với đồng bào dân tộc, người nông dân, cộng đồng nông dân, nông thôn, cộng đồng trong các thôn bản, tạo nên sự kết nối, gần gũi, thân thiện với du khách.

Đây là những điều mà Yên Bái, Tuyên Quang, Lai Châu và các địa phương khác đang duy trì theo đuổi và đã đạt được thành công bước đầu.

Theo góc nhìn mở này, nguồn lực, lợi thế của vùng TD&MNBB không hề thiếu hụt hay bị giới hạn. Nguồn lực cho tất cả địa phương đầu tiên và quan trọng nhất là cộng đồng dân cư địa phương. Khi cộng đồng địa phương được nâng cao năng lực, được trao quyền lực, sức mạnh của từng địa phương. Tư duy phân công giao việc theo từng cấp, từ trên xuống dưới cần được triển khai thay vì tâm lý trông chờ, ỷ lại cũng như các kênh kết nối với người dân.

Ở nhiều quốc gia đã có cách tiếp cận khác là sự chủ động tiếp cận từ cấp cơ sở, người dân tới cộng đồng xã hội của chính quyền địa phương. Trong khi hỗ trợ từ bên ngoài nhiều khi chỉ mang tính thời điểm thì việc tự chủ trong điều kiện có hạn của cộng đồng xã hội. Điều này sẽ tạo cơ sở vững chắc để từng bước cân nhắc xem xét phù hợp các giải pháp đồng bộ, hiệu quả quản lý tài nguyên, thiên nhiên, nhất là các vấn đề bảo vệ môi trường, gìn giữ tài nguyên rừng, cải thiện nâng cao kinh tế địa phương và thu nhập của người dân.

Về kinh tế sinh thái nông nghiệp bền vững luôn được quan tâm hàng đầu tại các địa phương. Những gợi ý từ các tổ chức quốc tế cho thấy khả năng về việc nông dân, người dân tộc, người dân địa phương có thể cùng tham gia với các cơ quan quản lý để cùng chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi đối với diện tích có tài nguyên, thiên nhiên có rừng bao phủ.

Ngay tại Lào Cai Hội nghị ngày hôm nay, tỉnh đã mạnh dạn thí điểm mô hình hợp tác phát triển dược liệu gắn với bảo tồn rừng và cung cấp các nguyên liệu, dược liệu cho các doanh nghiệp để bảo tồn, phát triển bền vững, hợp tác quản lý, bảo vệ rừng gắn với phát triển sinh kế cho người dân.

Những mô hình đã được kiểm chứng về hiệu quả ban đầu như thế này có thể giúp cac địa phương có lời giải đáp trước những phân vân, xung đột giữa giữ vững, bảo tồn tài nguyên rừng và tăng trưởng kinh tế thiếu bền vững. Tư duy giữ rừng cần có những tiếp cận khác, chứ không thể theo một cách truyền thống là thuê mướn bảo vệ rừng với đơn giá ở mức thấp như hiện nay.

Tôi đồng tình với chia sẻ của lãnh đạo 1 địa phương trong Vùng rằng nếu đặt nặng chỉ tiêu tăng trưởng thì không ít các địa phương vẫn là khó khăn, thiếu thốn nhiều mặt và hạ tầng phát triển thấp. Và nếu nghĩ khác đi là làm sao để người dân trong các tỉnh sống hài hòa và hạnh phúc.

Những góc nhìn này trong lĩnh vực nông diệp, phải chăng mỗi địa phương trong vùng cần xác định phát huy thế mạnh nông nghiệp cho riêng mình tùy theo điều kiện của địa phương để phát huy tối đa giá trị của mình. Những gợi ý về con đường “nông sản hạnh phúc”, “nông nghiệp hạnh phúc” là cách thức hay để xây dựng tạo dựng được những đặc thù cho phát triển nông nghiệp như cách Hà Giang đã và đang làm.

Tất nhiên, để có thể thúc đẩy phát triển các hoạt động nông nghiệp mang tính bền vững như những góc nhìn nêu trên thì rất cần thêm cơ sở hạ tầng giao thông tốt hơn như cầu đường, sân bay,…Những cách tiếp cận mới sẽ tạo ra nhiều điểm đến được hiện diện trên bản đồ du lịch thế giới khi kinh tế tăng trưởng bao trùm ở tất cả địa phương trong Vùng.

****

Theo Bộ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải Nguyễn Văn Thể, giao thông có chức năng liên kết vùng, giao thông đi đến đâu, kinh tế phát triển đến đấy. Vì vậy phát triển hạ tầng giao thông là rất quan trọng.

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết, Vùng Trung du và miền núi phía Bắc còn khó khăn chủ yếu là do giao thông kết nối còn hạn chế. Đường bộ quốc gia có tuy 11 tuyến cao tốc, và đây là phương thức vận tải chủ yếu, quan trọng nhất, giữ vai trò kết nối vùng với thủ đô Hà Nội, kết nối liên tỉnh, kết nối các cửa khẩu quốc tế (Trung Quốc, Lào), nhưng còn nhỏ hẹp.

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết, Vùng Trung du và miền núi phía Bắc còn khó khăn chủ yếu là do giao thông kết nối còn hạn chế (Ảnh: Đức Trung)

Đường sắt cũng còn nhỏ hẹp. Về đường hàng không có Cảng hàng không Điện Biên nhưng đang khai thác hạn chế, Cảng hàng không Nà Sản xuống cấp nên đã tạm dừng khai thác; mạng lưới đường tỉnh có quy mô và chất lượng thấp.

Do vậy, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho rằng, dứt khoát trong 5-10 năm tới phải tạo đột phá về hạ tầng giao thông, nếu không thì sẽ không phát triển được.

Theo Bộ trưởng, sắp tới cần tập trung nguồn lực phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, nhằm tạo động lực tăng trưởng cho vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Triển khai nhiều dự án trọng điểm, cần nguồn lực rất lớn, do vậy Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể nhấn mạnh, phải làm sao thu hút được nguồn lực, kết hợp nguồn vốn Trung ương và địa phương, kêu gọi nguồn lực đầu tư từ xã hội, mời các nhà đầu tư tư nhân đầu tư dự án quan trọng, ví dụ sân bay. “Chúng ta phải hợp vốn để phát triển hạ tầng cơ sở”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể nói.

Chia sẻ về định hướng sắp tới, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết, phải phát triển đường cao tốc. Trong đó, sẽ cố gắng nâng cấp cao tốc Hà Nội – Lào Cai, đặc biệt là đoạn Yên Bái – Lào Cai, để hình thành được một con đường kết nối toàn vùng. Cùng với đó, nghiên cứu cao tốc Mộc Châu – Điện Biên, Hà Nội – Sơn La, Hà Nội – Hà Giang…, các tuyến đường kết nối với cảng Lạch Huyện, kết nối với các cửa khẩu quốc tế để kết nối giao thương. Đồng thời, hình thành được trục xương sống kết nối cảng biển, kết nối Trung Quốc, kết nối các địa phương trong vùng.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể, kết nối hàng không cũng rất quan trọng. Nên hình thành nên sân bay có thể đi bất cứ nơi đâu, sang Âu, sang Mỹ…

“Vùng này là vùng đồi núi, đi lại đường bộ khó khăn, nếu hình thành được đường hàng không sẽ tạo đột phá rất lớn”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể nói.

Bộ trưởng cũng bày tỏ sự vui mừng khi cải tạo được Cảng hàng không Điện Biên. Ngày mai Thủ tướng cũng đi tham quan mặt bằng dự kiến triển khai Sân bay Sa Pa. Sân bay này vừa có ý nghĩa về kinh tế, vừa có ý nghĩa quốc phòng, an ninh. Hy vọng từ nay tới cuối năm sẽ khởi công xây dựng được.

“Sân bay Nà Sản cũng rất quan trọng. Chúng tôi rất mừng khi đã có nhà đầu tư quan tâm đầu tư sân bay này theo phương thức PPP”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể nói.

Theo Bộ trưởng, như vậy là hiện đã có 3 sân bay, sắp tới có thể quy hoạch thêm 2 sân bay nữa, để hình thành phát triển hệ thống sân bay cho Vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Nếu có sân bay, các nhà đầu tư lớn như Samsung cũng có thể tới đây, tạo sự đột phá rất lớn cho kinh tế – xã hội của Vùng.

Bên cạnh đó, cũng nâng cấp hệ thống đường thủy nội địa. Đồng thời đầu tư cho đường sắt, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông và vận tải hàng hóa.

Về cảng biển, Thủ tướng đã chỉ đạo nâng cấp Quốc lộ 4 để kết nối với các cảng ở Quảng Ninh, làm sao đưa hàng hóa đến các cảng biển ở khu vực này.

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể khẳng định, phải cố gắng trong 1-2 nhiệm kỳ nữa phát triển được hệ thống giao thông đồng bộ, như vậy, nhà đầu tư sẽ đến, Vùng Trung du và miền núi phía Bắc sẽ có bước đột phá.

****

Chia sẻ tại Hội nghị, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh cho biết, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ (TD&MNBB) có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế – chính trị, văn hóa – xã hội và quốc phòng – an ninh và đối ngoại của cả nước; là địa bàn giàu tiềm năng, lợi thế về kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp, khoáng sản, thủy điện, du lịch, kinh tế biên mậu…; là “phên dậu” của Tổ quốc, là ‘‘lá phổi“ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ.

Đây là vùng có địa bàn rộng lớn, là nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) với mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng được thể hiện qua ngôn ngữ, trang phục, nhà ở, ẩm thực, phong tục tập quán…; cũng là nơi có nhiều căn cứ cách mạng, di sản vật thể và phi vật thể, di tích lịch sử, lễ hội dân tộc truyền thống mang bản sắc văn hóa riêng, đa dạng, đặc sắc, độc đáo và nhiều tính nhân văn.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh: Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ (TD&MNBB) có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế – chính trị, văn hóa – xã hội và quốc phòng – an ninh và đối ngoại của cả nước (Ảnh: Đức Trung)

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm, ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chương trình, dự án nhằm hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS&MN nói chung và Vùng TD&MNBB nói riêng.

Sau 17 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW và Kết luận số 26-KL/TW, vùng TD&MNBB đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng, từng bước hoàn thiện đã làm thay đổi tích cực diện mạo của vùng.

Kinh tế tăng trưởng cao hơn bình quân cả nước, cơ cấu chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ; bước đầu phát triển sản xuất hàng hóa gắn với thị trường.

Sự nghiệp giáo dục, đào tạo và chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ; các giá trị văn hóa dân tộc truyền thống được bảo tồn và phát huy; hệ thống chính trị cơ sở ngày càng được củng cố; đội ngũ cán bộ DTTS từng bước nâng cao năng lực, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của tình hình mới; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các DTTS, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh. Những kết quả đạt được trên nhiều lĩnh vực đã góp phần củng cố niềm tin của đồng bào DTTS với Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, đến nay vùng TD&MNBB vẫn là vùng khó khăn nhất cả nước:

– Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo cao, thoát nghèo thiếu bền vững; năm 2018 vẫn còn 25,4% hộ nghèo. Một bộ phận đồng bào DTTS trong vùng còn thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; nhiều nhà ở còn tạm bợ, có nơi nguy cơ ảnh hưởng bởi thiên tai; phát triển sản xuất đã có nhiều khởi sắc nhưng nhiều nơi còn mang tính tự cung tự cấp. Đặc biệt, việc Trung Quốc xây dựng hàng rào biên giới đã ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt, sản xuất, xuất khẩu, việc làm và thu nhập của một bộ phận đồng bào vùng biên giới.

– Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh; việc đầu tư phát triển địa bàn vùng biên giới chưa tương xứng với vị trí, vai trò để bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia; một số xã vùng cao, biên giới, vùng sâu vùng xa có cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình còn hạn chế; ô tô chưa thể đi lại thuận lợi bốn mùa trong năm; hệ thống đường liên thôn, bản còn thiếu, nhiều nơi chưa được cứng hoá.

Chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục, y tế, văn hóa, an sinh – xã hội vùng TD&MNBB tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, thấp hơn so với mặt bằng chung cả nước; tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết, suy thoái giống nòi vẫn là một vấn đề lớn đối với một bộ phận người DTTS; tỷ lệ phụ nữ sinh đẻ tại nhà còn cao; số người DTTS không biết nói tiếng dân tộc mình ngày càng tăng; dân ca, dân vũ, nhạc cụ truyền thống của nhiều DTTS chỉ được phục dựng khi có lễ hội, ít được diễn ra trong đời sống hàng ngày; bản sắc văn hóa một số dân tộc đang dần mai một và có nguy cơ biến mất.

Về an ninh – chính trị và trật tự và an toàn xã hội: vùng đồng bào DTTS TD&MNBB vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn. Một số vụ khiếu kiện, tranh chấp đất đai diễn biến khá phức tạp, chưa được giải quyết dứt điểm; hiện tượng phá rừng, du canh du cư, di cư tự do vẫn còn diễn ra. Công cuộc phòng chống tội phạm ma túy (tái trồng cây thuốc phiện, nghiện hút, tàng trữ, buôn bán, vận chuyển ma túy), buôn lậu hàng hóa, mua bán phụ nữ, trẻ em, tàng trữ vũ khí quân dụng, xuất nhập cảnh trái phép… còn nhiều thách thức. Một số tà đạo, đạo lạ, tổ chức bất hợp pháp (Hà Mòn, Bà cô Dợ, Tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình, Hội thánh của Đức chúa trời mẹ, Pháp Luân Công…) vẫn lén lút hoạt động.

Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước vẫn chưa từ bỏ âm mưu chống phá, lôi kéo đồng bào DTTS gây mất đoàn kết dân tộc. Theo đó, âm mưu, thủ đoạn gây chia rẽ hiện nay của các thế lực thù địch, phản động chủ yếu là tuyên truyền, xuyên tạc, bôi đen thành tựu thực hiện đường lối, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta.

Chúng triệt để lợi dụng những vấn đề xã hội bức xúc, những khó khăn trong đời sống đồng bào các DTTS, hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tham nhũng, tiêu cực của một số cán bộ, đảng viên để kích động chống đối, hình thành những điểm nóng gây chia rẽ từ bên trong. Chúng lợi dụng hội nhập quốc tế làm “biến dạng” các giá trị văn hóa truyền thống; tạo dựng “ngọn cờ”, lợi dụng các vấn đề dân chủ, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, các vấn đề lịch sử để kích động, chia rẽ đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân; giữa các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; thúc đẩy hình thành các “khu tự trị”, “nhà nước tự trị”…

Đáng chú ý, chúng tập trung vào phá hoại mối đoàn kết giữa đồng bào với Đảng, Nhà nước; nhân dân với các cấp chính quyền và lực lượng vũ trang; mối quan hệ giữa quân đội và công an…Cùng với chống phá trên các địa bàn chiến lược như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ hiện nay, chúng đẩy mạnh chống phá gây chia rẽ, mất đoàn kết ở các khu công nghiệp, trung tâm kinh tế, chính trị các địa phương. Internet, mạng xã hội đã và đang được các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng với những thủ đoạn mới rất tinh vi, xảo quyệt để chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Do đó, theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh, đối với vùng TD&MNBB, tại Nghị quyết số 11-NQ/TW, Đảng ta xác định: ‘Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế – xã hội; môi trường sinh thái; quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Phát triển nhanh và bền vững vùng, từng bước thu hẹp trình độ phát triển và mức sống của nhân dân trong vùng so với các vùng khác trong cả nước…”

Về quan điểm, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS&MN nói chung, trong đó có vùng TD&MNPB nói riêng: đã được xác định cụ thể tại Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội khóa XIV phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021- 2030. Để cụ thể hoá chủ trương, đường lối của Đảng nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao chất lượng đời sống cho đồng bào các DTTS vùng TD&MNPB, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Hầu A Lềnh cho rằng cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.

Trong đó, đầu tiên là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm về vai trò, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các cấp, các ngành, các lực lượng, mọi người dân nhận thức rõ và đúng về sự cần thiết của tăng cường đại đoàn kết toàn dân.

Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách về dân tộc, tôn giáo, chính sách xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các DTTS, khuyến khích, động viên, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tổ chức thực hiện có hiệu quả các Chương trình, dự án, chính sách dân tộc thực hiện tại vùng DTTS&MN; trọng tâm là triển khai thực hiện 03 Chương trình mục tiêu quốc gia: Phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN; Giảm nghèo bền vững; Xây dựng nông thôn mới. Trước mắt, tập trung rà soát đối tượng thụ hưởng, giải ngân nguồn lực, ưu tiên đối tượng, địa bàn khó khăn nhất, nhằm tiếp tục cải thiện và nâng cao chất lượng đời sống cho nhân dân nói chung và đồng bào các DTTS nói riêng.

Bên cạnh đó, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Quán triệt, thực hiện đúng phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó, tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước.

Đặc biệt cần nâng cao ý thức cảnh giác, thường xuyên nhận diện, kiên quyết đấu tranh hiệu quả với các âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch, phản động. Có các giải pháp, biện pháp mạnh, nâng cao hiệu quả đấu tranh, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trên không gian mạng – mặt trận nóng bỏng hiện nay. Chủ động, nhạy bén, sắc sảo phát hiện, vạch trần bản chất phản động, mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, phản động; giành giữ, bồi đắp tình cảm cách mạng, niềm tin của toàn thể nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng đất nước.

****

Theo Thứ trưởng Bộ Công an Lê Văn Tuyến, Vùng Trung du và miền núi phía Bắc là vùng có vị trí chiến lược về kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng. Sau 17 năm thực hiện Nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2020, các địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế của vùng.

Thứ trưởng Bộ Công an Lê Văn Tuyến (Ảnh: Đức Trung)

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Vùng Trung du và miền núi phía Bắc vẫn là vùng nghèo của cả nước, các địa phương trong vùng phát triển không đồng đều, đồng thời tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn an ninh, quốc gia. Tình trạng mâu thuẫn, khiếu kiện về đất đai, tội phạm kinh tế, ma túy diễn biến phức tạp, ảnh hưởng an ninh quốc phòng.

Theo Thứ trưởng Lê Văn Tuyến, thời gian tới, tình hình an ninh, chính trị thế giới còn diễn biến phức tạp, khiến các thách thức về an ninh truyền thống, phi truyền thống phức tạp, ảnh hưởng tới tình hình an ninh, quốc phòng của Vùng.

Vì vậy, Bộ Công an đề xuất tiếp tục cụ thể hóa, thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về đảm bảo an ninh quốc phòng, cũng như phát triển kinh tế kết hợp quốc phòng, an ninh.

Thứ trưởng Lê Văn Tuyến cho rằng, tới đây, phải chủ động giải quyết, không để xảy ra các vấn đề bất ngờ về an ninh, quốc phòng.

Bộ cũng sẽ tham mưu giải quyết các vấn đề phức tạp ở vùng dân tộc thiểu số; chủ động phát hiện, ngăn chặn các vi phạm về an ninh quốc phòng, đảm bảo an toàn, an ninh, quốc phòng vùng Tây Bắc.

Đồng thời, tăng cường phối hợp với các bộ ngành, đia phương xây dựng chính sách làm sao đảm bảo phát triển kinh tế – xã hội gắn với an ninh quốc phòng, trong đó có việc thẩm định, tham mưu về các dự án có vốn đầu tư nước ngoài ở vùng biên giới.

Để đảm bảo an ninh, quốc phòng của toàn Vùng, Bộ Công an cũng sẽ tập trung đấu tranh, triệt phá các vụ án về ma túy, đồng thời, tuyên truyền, động viên nhân dân cùng tham gia phòng chống tội phạm.

****

Theo Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH,TT&DL) Tạ Quang Đông, với “vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế – xã hội; môi trường sinh thái; quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước” được Bộ Chính trị khẳng định tại Nghị quyết số 11-NQ/TW, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ (TD&MNBB) có những tiềm năng, lợi thế về văn hóa, du lịch khi  có những nét riêng biệt không hề có ở các vùng lãnh thổ khác trên đất nước ta.

Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tạ Quang Đông (Ảnh: Đức Trung)

Vùng này bao gồm nhiều dãy núi trùng điệp, hùng vĩ như dãy núi Hoàng Liên Sơn được mệnh danh là “mái nhà của Đông Dương”, với đỉnh cao nhất là Phanxipang 3.142m và hàng chục đỉnh núi khác có độ cao trên dưới 3.000m. Những dãy núi nơi đây có đặc điểm bị chia cắt rất mạnh và có tính phân bậc, vì thế tạo nên nhiều cảnh quan đẹp và di tích tự nhiên bao gồm các thác nước, những thung lũng mở rộng và vực thẳm. Ngoài Sa Pa là thị xã du lịch nổi tiếng nằm ở độ cao 1.500m thuộc tỉnh Lào Cai, các địa danh khác như cao nguyên Mẫu Sơn (Lạng Sơn), Đồng Văn, Quản Bạ (Hà Giang), Bắc Hà (Lào Cai), Mộc Châu (Sơn La)… được ví như bức tranh tuyệt tác vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng, có đầy đủ mọi điều kiện tự nhiên thuận lợi để xây dựng các khu du lịch đẳng cấp quốc gia có tính chất riêng của khu vực miền núi.

Bên cạnh đó, vùng TD&MNBB còn có những rừng cọ, đồi chè, vườn cây ăn quả, những đỉnh đồi lượn sóng theo thung lũng và cánh đồng ngát xanh men theo các dòng sông đỏ nặng phù sa, tạo nên một cảnh sắc thân thuộc gắn liền với lịch sử dựng nước của dân tộc Việt Nam. Bằng vẻ hùng vĩ cộng với không gian khoáng đạt, cảnh vật tĩnh mịch, êm đềm và môi trường trong lành, vùng này đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ và cảm xúc sâu đậm cho mọi du khách đến nơi đây.

Mặt khác, nơi đây còn có thêm những hệ thống hang động của địa hình Kasxto thuộc vùng núi đá vôi. Các nhà khoa học đã phát hiện hơn 20 hang có giá trị khảo cổ Thời kỳ đồ đá, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Lạng Sơn, Lai Châu và Hòa Bình. Ngoài giá trị thiên nhiên, các hang động này còn có các sự tích hoặc gắn với các sự kiện lịch sử như Hang Pắc Bó (Cao Bằng). Du lịch sinh thái tập trung chủ yếu ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên vốn rất phong phú gồm 49 khu bảo tồn tự nhiên, 5 vườn quốc gia và 20 khu rừng văn hóa-lịch sử- môi trường, với những danh lam thắng cảnh hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc, hồ Thác Bà, lòng hồ sông Đà, Thác Bản Giốc, Thác Bạc…

Đặc biệt, Vùng TD&MNBB rất có ý nghĩa về lịch sử cội nguồn. Nhiều di tích gắn bó với truyền thuyết và lịch sử dân tộc như Đền Mẫu Âu Cơ, Đền Hùng (Phú Thọ); di tích lịch sử gắn với từng giai đoạn cách mạng như Hang Pắc Bó (Cao Bằng), Cây đa Tân Trào và An toàn khu ở Tuyên Quang, Di tích lịch sử Điện Biên Phủ… đang tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc trên vùng đất này phát triển mạnh về du lịch để xóa nghèo vươn lên làm giàu bền vững. Các dân tộc sinh sống nơi đây còn lưu giữ và bảo tồn nền văn hóa lâu đời với nhiều lễ hội truyền thống độc đáo như hội Lồng Tồng, hội Gầu Tào, hội xuống đồng, hội xòe…; các điệu múa đặc sắc như múa khèn, múa sạp, hát then, hát lượn… cùng nhiều trò chơi dân gian hấp dẫn. Tất cả sẽ mang lại cho du khách nhiều trải nghiệm thú vị.

Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, như nhận định của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 11-NQ/TW, đó là “Trung du và miền núi Bắc Bộ vẫn là “vùng trũng” trong phát triển và là “lõi nghèo” của cả nước, liên kết vùng còn yếu.”. Trong đó, có nhiều khó khăn, thách thức trong phát triển du lịch bền vững gắn với bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của vùng, cụ thể:

– Mặc dù có sự tăng trưởng khá nhanh về số lượng khách du lịch nhưng một số địa phương, điểm đến trong Vùng chưa có sự phát triển du lịch bền vững. Tỷ lệ khách phân bố giữa các trọng điểm du lịch của Vùng có sự chênh lệch lớn; tỷ lệ khách quốc tế chiếm tỷ lệ nhỏ so với tỷ lệ khách du lịch nội địa. Nguồn khách quốc tế đến Vùng tuy đa dạng nhưng chưa ổn định. Số khách có khả năng chi trả cao cho các dịch vụ cao cấp đến du lịch còn hạn chế. Nguồn đầu tư bên ngoài vào các khu, điểm du lịch quốc gia giữa các địa phương trong Vùng cũng có sự chênh lệch lớn.

– Hạ tầng du lịch của Vùng tuy có sự đầu tư trong giai đoạn vừa qua nhưng còn chưa tương xứng với tiềm năng vị thế của Vùng. Giữa các khu du lịch quốc gia, trọng điểm du lịch của Vùng chưa được đầu tư kết nối với nhau thuận tiện. Hệ thống giao thông đường sắt, đường thủy mới được đầu tư ở mức độ hạn chế. Hệ thống cơ sở lưu trú, thương mại dịch vụ cao cấp ở các khu du lịch còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách, nhất là đối tượng khách du lịch có khả năng chi tiêu lớn. Vùng thiếu những tổ hợp vui chơi giải trí quy mô. Hạ tầng các khu du lịch quốc gia chưa có sự đầu tư tương xứng với vị thế, quy mô và tiềm năng phát triển.

– Hệ thống sản phẩm du lịch của Vùng, nhất là các khu du lịch quốc gia chưa có sự phát triển phong phú đa dạng. Vùng có ít thương hiệu du lịch đủ mạnh, có sức cạnh tranh trên thị trường du lịch, nhất là các thương hiệu tầm cỡ khu vực và thế giới; Việc kết hợp giữa các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao với hoạt động du lịch nhằm tạo ra các sản phẩm du lịch hấp dẫn còn hạn chế.

Chất lượng nguồn nhân lực du lịch Vùng còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế. Đội ngũ cán bộ quản lý du lịch được đào tạo chuyên ngành còn thiếu và trình độ đào tạo còn thấp, nhất là ở các khu, điểm du lịch trọng điểm. Tỷ lệ cán bộ có khả năng sử dụng được ngoại ngữ thông thạo còn ít. Lực lượng lao động du lịch còn thiếu tính chuyên nghiệp và chủ yếu là lao động phổ thông; lực lượng lao động du lịch chất lượng cao còn thiếu. Hoạt động liên kết, hợp tác phát triển du lịch giữa các địa phương trong Vùng, liên Vùng và hợp tác quốc tế chưa đi vào chiều sâu, thiếu cơ chế hiệu quả về liên kết về đầu tư, huy động và phân bố nguồn lực, phát triển thương hiệu chung.

– Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch Vùng tuy đã thu được một số kết quả nhất định nhưng nhìn chung vẫn còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển du lịch của Vùng và sự quan tâm của nhà đầu tư. Hoạt động xúc tiến, quảng bá chưa có tính sáng tạo, chuyên nghiệp, chưa đi sâu vào các phân khúc thị trường du lịch trong nước và quốc tế. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch ngoại vùng và quốc tế còn hạn chế. Nguồn lực sử dụng cho công tác xúc tiến, quảng bá du lịch còn hạn chế.

– Hệ thống cơ sở đào tạo du lịch Vùng phát triển chưa toàn diện, thiếu hệ thống cơ sở đào tạo chuyên sâu. Việc liên kết đào tạo giữa Vùng với các trung tâm đào tạo nhân lực quốc gia và quốc tế về du lịch có uy tín còn hạn chế.

– Nguồn lực đầu tư từ ngân sách Nhà nước để bảo tồn các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc của Vùng còn thấp so với nhu cầu. Ví dụ như: Trong giai đoạn 2016-2020, nguồn lực từ Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa hỗ trợ cho 14 tỉnh của Vùng là 110,43 tỷ đồng.

– Công tác bảo đảm an ninh, quốc phòng trong hoạt động phát triển du lịch có lúc có nơi còn chưa được quan tâm đúng mức nhất là trong công tác đảm bảo an toàn thực phẩm, phòng cháy chữa cháy, điều kiện an toàn để tổ chức các môn thể thao mạo hiểm, phòng chống lạm dụng tình dục ở trẻ em, đảm bảo an toàn tài sản cho du khách ở các cơ sở lưu trú,…

Với những lập nêu trên, Thứ trưởng Bộ VH,TT&DL Tạ Quang Đông cho rằng cần xây dựng những nhiệm vụ, giải pháp tập trung ưu tiên vào các lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch cho các khu, điểm du lịch, tăng cường số lượng cơ sở lưu trú theo hướng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ.

Bên cạnh đó là thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực du lịch đủ về số lượng, có cơ cấu phù hợp và nâng cao trình độ nghiệp vụ để tiến kịp với các địa phương khác trên cả nước, chú trọng đào tạo kỹ năng nghề và thực hành du lịch cộng đồng cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Vùng TD&MNBB có những lợi thế xây dựng những sản phẩm du lịch đặc thù mang đậm tính văn hóa và cảnh quan thiên nhiên vùng gắn với sinh thái – nghỉ dưỡng để tạo tiền đề xây dựng thương hiệu du lịch cho địa phương. Những chương trình du lịch liên kết giữa các tỉnh trong Vùng cũng như với các tỉnh Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải Bắc Bộ, Duyên hải Trung Bộ và Vùng Nam Bộ; giữa các tỉnh trong Vùng với các tỉnh nước bạn có chung đường biên giới Việt – Trung; Việt – Lào là cần thiết để mở rộng thị trường khách du lịch trong nước và quốc tế. Phấn đấu hoàn thiện hạ tầng cơ sở vật chất, kỹ thuật cơ bản cho 13 Khu du lịch quốc gia đã hoàn thành quy hoạch để tạo động lực phát triển du lịch toàn Vùng. Tập trung phát triển 6 trọng điểm du lịch Vùng.

Phát triển các tuyến du lịch liên Vùng gắn với hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không. Phát triển các tuyến du lịch liên vùng và quốc tế: Cao Bằng-Bắc Kạn-Thái Nguyên-Hà Nội-các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ; Côn Minh (Trung Quốc)-Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh; Nam Ninh (Trung Quốc)-Lạng Sơn-Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh… Chú trọng hoàn thiện các tuyến du lịch nội vùng.

Ngoài các giải pháp, lãnh đạo Bộ VH,TT&DL cũng kiến nghị các tỉnh trong Vùng cần chỉ đạo các cơ quan chức năng liên quan lưu ý cập nhật những công trình văn hóa, thể thao và du lịch vào Quy hoạch các cấp để trung ương, địa phương quan tâm đầu tư và thu hút đầu tư. Ví dụ như: Bảo tồn và phát huy giá trị các di tích ATK, bảo tồn làng, bản truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số; các địa bàn trọng điểm phát triển du lịch đã được xác định trong quy hoạch du lịch…

Các tỉnh đã thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch cần tiếp tục phát huy những kết quả đạt được theo Luật Du lịch để tạo nguồn lực đẩy mạnh phát triển du lịch bền vững gắn với bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống trên địa bàn, góp phần thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa của cả Vùng.

Đồng thời, đề xuất Trung ương quan tâm đầu tư cho ngành văn hóa, thể thao và du lịch như: Các Dự án thuộc Chương trình bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa giai đoạn 2021-2025 (được phê duyệt tại Quyết định số 1230/QĐ- TTg ngày 15/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ); các dự án liên quan đến phát triển văn hóa, thể thao và du lịch trong các Chương trình mục tiêu quốc gia, cụ thể như: Dự án số 6 của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 (được phê duyệt tại Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ)…

****

Bí thư tỉnh ủy Lào Cai Đặng Xuân Phong: Là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng, giàu tài nguyên và có vai trò quyết định đối với môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ nhưng đây vẫn là “vùng trũng” trong phát triển và là “lõi nghèo” của cả nước mà một trong những nguyên nhân được thẳng thắn nhìn nhận là “chưa khai thác được nhiều nguồn lực, thiếu thể chế cho liên kết”. Vì vậy, việc tìm ra những giải pháp mạnh mẽ, đột phá để vừa “tạo thêm”, vừa “tạo mới” động lực để “phẳng hóa vùng trũng”, góp phần tích cực vào sự phát triển chung của cả nước.

Bí thư tỉnh ủy Lào Cai Đặng Xuân Phong: Các địa phương cần xác định “tư duy liên kết” chính là bộ phận không thể tách rời của “tư duy phát triển”; liên kết là phát triển và muốn phát triển phải liên kế (Ảnh: Đức Trung)

Bám sát những định hướng tại Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị và các giải pháp tại Nghị quyết 96/NQ-CP của Chính phủ, Bí thư tỉnh ủy Lào Cai Đặng Xuân Phong nhấn mạnh một số giải pháp tạo động lực cho Vùng như sau:

Một là, đổi mới tư duy về liên kết vùng: Các địa phương cần xác định “tư duy liên kết” chính là bộ phận không thể tách rời của “tư duy phát triển”; liên kết là phát triển và muốn phát triển phải liên kết.

Mỗi địa phương xác định là một mắt xích quan trọng trong vùng; một mắt xích riêng lẻ rất yếu nhưng khi liên kết lại sẽ trở thành một sợi dây xích khỏe, đủ sức vận hành cả cỗ máy.

Hai là, cần xác định, nhận thức rõ bản chất, nội hàm của liên kết để cụ thể hóa và xác định thứ tự, nội dung ưu tiên thực hiện: Nhiệm vụ trọng tâm là cần sớm hoàn thành Quy hoạch phát triển vùng giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 đồng bộ với quy hoạch tỉnh của các địa phương; bảo đảm tính liên kết tổng thể trong nội dung quy hoạch. Sớm thành lập và ban hành Quy chế của Hội đồng điều phối vùng, trong đó nghiên cứu cơ chế phân cấp đủ mạnh cho Hội đồng thực hiện nhiệm vụ phê duyệt các định hướng, chương trình phát triển kinh tế của vùng.

Lựa chọn liên kết hạ tầng là trọng tâm, với hạ tầng giao thông làm khâu đột phá: Trong đó thay đổi cách thức định hướng quy hoạch giao thông (đường bộ, cao tốc, tiền cao tốc; cảng hàng không; ga đường sắt…) theo hướng mở, linh động để các địa phương chủ động cân đối, điều chỉnh nguồn lực phù hợp với từng giai đoạn phát triển với mục tiêu cuối cùng là tăng khả năng liên kết; giảm sâu thời gian, chi phí lưu thông hàng hóa nội vùng, ngoại vùng.

Bảo đảm tính toàn diện trong liên kết theo hướng “ưu tiên liên kết thế mạnh”; “tập trung liên kết bổ trợ” và “chú trọng liên kết yếu điểm”. Đồng thời mở rộng liên kết, không chỉ trong vùng, liên vùng, với các nhà đầu tư… Chính từ sự liên kết toàn diện nêu trên sẽ “biến thách thức thành cơ hội; tiềm năng thành tiềm lực; tiềm lực thành nguồn lực” cho Vùng phát triển kịp với vùng kinh tế động lực khác.

Ba là, cần cụ thể hoá Nghị quyết, Chương trình hành động cho vùng kinh tế đặc thù bằng cơ chế, chính sách đặc thù: Trong đó cần chủ động, mạnh dạn đề xuất và quyết tâm thực hiện các cơ chế thí điểm như tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng đó là “Những việc chưa có quy định hoặc đã có quy định vượt quá thực tiễn thì mạnh dạn đề xuất làm thí điểm”, với chính sách riêng biệt nhằm ổn định cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhất là tại khu vực biên giới gắn với khôi phục, bảo vệ nghiêm ngặt tài nguyên rừng và nguồn sinh thủy cho vùng Bắc Bộ.

Ngoài ra, cần có cơ chế về phân bổ, phân chia Ngân sách theo hướng tăng tỷ lệ để lại cho địa phương các nguồn thu, nguồn vượt thu phát sinh trên địa bàn mà Trung ương đang được hưởng.

Bên cạnh đó, xây dựng cơ chế chia sẻ, khai thác hiệu quả, bền vững; bảo đảm an ninh nguồn nước trên các sông, suối biên giới; nghiên cứu phương án chỉnh trị sông phục vụ đa mục tiêu (cho công nghiệp, năng lượng, du lịch, nông nghiệp…).

Ban hành cơ chế đặc thù về nguồn lực, thu hút đầu tư cho các địa phương có Khu du lịch Quốc gia để gia tăng giá trị của ngành. Sớm ban hành quy định hoặc phương án thí điểm bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm để không chỉ bảo vệ mà còn khuyến khích sáng tạo, thúc đẩy đổi mới.

Bốn là, đi đôi với tạo nguồn lực là sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn lực hiện có, trọng tâm là sớm hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung của vùng gắn với Chuyển đổi số; được Hội đồng điều phối vùng chuẩn hóa và thống nhất quản lý.

Triển khai hệ thống này sẽ quản lý hiệu quả các thông tin kinh tế – xã hội trong đó có chuỗi sản xuất, cung ứng từ khâu nguyên liệu đến khâu lưu thông, xuất khẩu hàng hóa. Sẽ chấm dứt được tình trạng cục bộ, cát cứ địa phương trong phát triển các ngành lĩnh vực gây mất cân bằng cung – cầu hoặc tình trạng thừa, thiếu lao động tại một số địa phương, ngành nghề.

Để hoàn thành thắng lợi Nghị Quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, tỉnh Lào Cai đề xuất với Chính phủ quan tâm, chỉ đạo một số nội dung như, sớm triển khai xây dựng đề án phát triển một số cực tăng trưởng, trung tâm kết nối vùng theo tinh thần Nghị quyết 11-NQ/TW; xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, riêng biệt để tạo nguồn lực thúc đẩy liên kết – phát triển vùng và tạo sự bứt phá cho các địa phương…

****

Bà Steffi Stallmeister, Quyền Giám đốc Ngân hàng thế giới tại Việt Nam (World Bank): Việt Nam nổi tiếng với việc đạt được tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và duy trì hòa bình và thịnh vượng. Việt Nam này là một ví dụ toàn cầu về cách thức cải cách chính sách thành công và tận dụng các lực lượng kinh tế có thể giúp đạt được tăng trưởng kinh tế nhanh chóng cũng như những cải thiện cho xã hội.

Bà Steffi Stallmeister, Quyền Giám đốc Ngân hàng thế giới tại Việt Nam (World Bank) phát biểu tại Hội nghị (Ảnh: Đức Trung)

Hiện nay, những nỗ lực cải thiện sinh kế vẫn tiếp tục không suy giảm, trong đó chú ý đến điều kiện của những người nghèo nhất. Điều này không được minh chứng bằng việc thực hiện ba Chương trình Mục tiêu Quốc gia hiện tại. Chương trình thứ ba, CTMTQ thiểu số và miền núi đặc biệt phù hợp với đối tượng này vì nó giải quyết những thách thức ở các khu vực tập trung đông dân tộc thiểu số.

Mặc dù đã có những tiến bộ vượt bậc, nhưng tình trạng nghèo kinh niên vẫn còn cao ở những người chỉ làm nông nghiệp, người dân tộc thiểu số và những người ở các vùng đặc biệt khó khăn.

Vùng Trung du và Miền núi phía Bắc rất đa dạng – từ các điểm đến giàu có và bình dân như Sa Pa, đến các vùng sâu, vùng xa và kém phát triển hơn.

• Năm 2010, khu vực này là khu vực nghèo nhất ở Việt Nam.

• Đến năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo của vùng giảm và thấp hơn tỷ lệ nghèo của vùng Tây Nguyên. Lần đầu tiên sau một thập kỷ, vùng Trung du và miền núi phía Bắc không còn nơi nghèo nhất cả nước

• Trong thập kỷ qua, khu vực này đã có những bước phát triển mạnh mẽ, tận hưởng những cơ hội và tác động kinh tế tích cực từ vị trí gần các khu công nghiệp và đóng vai trò quan trọng trong thương mại xuyên biên giới.

• Tiếp cận thị trường và địa lý đóng một vai trò quan trọng. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi tình trạng nghèo đói ở Vùng Trung du và miền núi Bắc BỘ được cải thiện nhanh hơn nhiều ở vùng Đông Bắc so với vùng Tây Bắc.

Khoảng một nửa số dân tộc thiểu số sống ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

• Người dân tộc thiểu số chiếm 15% dân số Việt Nam, nhưng chiếm 86% số người nghèo còn lại.

• Tỷ lệ hoàn thiện giáo dục ở trẻ em dân tộc thiểu số chưa cao, tỷ lệ bỏ học sớm cao hơn nhiều so với trẻ em dân tộc Kinh.

• Nhiều dân tộc thiểu số vẫn chủ yếu làm nông nghiệp, nơi họ có năng suất thấp hơn và thu nhập thấp hơn người Kinh dù cho sản xuất cùng một loại sản phẩm.

• Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tiến bộ và tỷ lệ nghèo trong các hộ gia đình dân tộc thiểu số đã giảm một nửa trong thập kỷ từ 56,8% năm 2010 xuống còn 27,2% năm 2020.

• Ở phía Đông Bắc, ngày càng có nhiều người dân tộc thiểu số tận dụng lợi thế gần hơn và tìm được các công việc trong chế biến – chế tạo. Năm 2020, 20% lao động là người dân tộc thiểu số tham gia vào lĩnh vực sản xuất, bằng với tỷ lệ này của người Kinh vào năm 2010.

Ở Trung du và miền núi phía Bắc, đất canh tác sản xuất bị hạn chế.

• Tỷ lệ đói nghèo ở các hộ nông nghiệp vẫn cao hơn so với các hộ phi nông nghiệp và quá trình giảm nghèo diễn ra chậm hơn.

• Không thể sử dụng máy móc dọc theo các sườn núi dốc, vì vậy việc canh tác phải được thực hiện thủ công. Ví dụ, trồng lúa nương không cho năng suất cao như lúa trồng đại trà trên đất bằng ở Đồng bằng sông Cửu Long.

• Các gia đình vẫn dựa vào nông nghiệp muốn đạt được thu nhập cao hơn thông qua việc trồng các sản phẩm hoa màu sinh lợi hơn hoặc xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường mà họ có thể mua được giá cao hơn.

• Với kinh nghiệm và năng lực lãnh đạo mạnh mẽ, một số huyện đã thành công trong việc nâng cao chuỗi giá trị, và thành công của họ cần được nhân rộng hơn. Đã có nhiều tiến bộ, có nhiều cơ hội đáng kể để giảm nghèo hơn nữa ở các dân tộc thiểu số, ở các vùng tụt hậu và nông dân.

Vậy câu hỏi đặt ra là môi trường thuận lợi cần thiết ở các vùng nông thôn là gì?

Thứ nhất, cần đầu tư nhiều hơn không chỉ vào cơ sở hạ tầng cứng như đường để kết nối với thị trường tiêu thụ.

Ngày nay, với công nghệ mới, khoảng cách kinh tế không còn chỉ được đo bằng đường bộ. Với việc tiếp cận với internet thì chúng ta có thể tham gia vào thương mại điện tử hoặc các kỹ năng kỹ thuật số cho phép các cơ hội mà trước đây chỉ có ở các thành phố cũng tồn tại ở các vùng sâu vùng xa. COVID cũng đã nêu bật tầm quan trọng của công nghệ trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.

Thứ hai, vốn con người là chìa khóa để tăng trưởng kinh tế bền vững và phá vỡ bẫy nghèo đói giữa các thế hệ. Do đó, việc cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục và cải thiện kết quả học tập sẽ rất quan trọng. Đây là yếu tố kích thích tăng trưởng kinh tế tăng trưởng quan trọng trong tương lai

Thứ ba, hệ thống bảo trợ xã hội cần được hướng tới nhiều hơn. Nó cũng trở nên dễ thích nghi hơn để hỗ trợ những người lần đầu tiên lâm vào cảnh khó khăn, dù là do lũ lụt, hạn hán hoặc bệnh tật. Hệ thống an sinh xã hội cũng cần giải quyết các dạng dễ bị tổn thương đang nổi lên như ở những người lao động phi chính thức, những người sống ở khu vực thành thị phải đối mặt với chi phí sinh hoạt cao hơn nhiều, người tàn tật và người già.

Thứ tư, các chính sách hiện hành nhắm vào các dân tộc thiểu số cũng có thể được tăng cường. Các yếu tố như văn hóa, tôn giáo hoặc sự kỳ thị thường không được giải quyết. Quan trọng nhất, các chính sách hiện hành nên xem xét rằng có rất nhiều.

****

Ông Andrew Jeffries, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB): Như chúng ta đều biết, vùng Trung du và miền núi phía Bắc có phần lớn dân cư là các nhóm dân tộc thiểu số khác nhau và hiện vẫn là một trong những vùng nghèo nhất ở Việt Nam, bất chấp tiềm năng phát triển to lớn từ nông nghiệp, du lịch, thương mại xuyên biên giới, công nghiệp chế biến, cùng những ngành nghề khác.

Do vậy, chúng tôi đánh giá rất cao sự hỗ trợ liên tục và mạnh mẽ của Chính phủ đối với công cuộc phát triển kinh tế – xã hộicủa vùng, được tái khẳng định bằng Chương trình Hành động của Chính phủ ban hành ngày 1/8/2022 nhằm thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của vùng tới năm 2030, tầm nhìn tới năm 2045.

Ông Andrew Jeffries, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) – (Ảnh: Đức Trung)

Theo đó, khu vực này sẽ theo đuổi việc phát triển xanh, bền vững và bao trùm thông qua tăng cường tính kết nối nội vùng và giữa khu vực với vùng Đồng bằng sông Hồng và Hà Nội; phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và sản xuất năng lượng; nông nghiệp hữu cơ áp dụng công nghệ cao với các đặc sản vùng miền; kinh tế biên giới và du lịch, trong số những lĩnh vực khác.

Tôi rất vui mừng chia sẻ rằng các hoạt động trước đây và hiện nay của ADB đã và đang hỗ trợ các chiến lược và kế hoạch phát triển của vùng; và các hoạt động của chúng tôi trong tương lai, như được nêu bật trong Chiến lược Đối tác quốc gia cho Việt Nam giai đoạn 2023-2026, vẫn sẽ tiếp tục hỗ trợ sự phát triển của vùng phù hợp với các định hướng đã được Chính phủ phê duyệt

Tôi xin nêu một ví dụ điển hình là tuyến Cao tốc Nội Bài – Lào Cai, được thông xe vào tháng 9 năm 2014, và rất nhiều người trong số các quý vị đã sử dụng để đến tham gia hội  nghị này.

Trước dự án đường cao tốc này, đã có Quy hoạch tổng thể phát triển đường cao tốc giai đoạn 2007-2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Quy hoạch tổng thể này có nhiều khía cạnh để thúc đẩy sự phát triển của khu vực. Và như một phần của Quy hoạch tổng thể này, Chính phủ đã yêu cầu một khoản vay của ADB trị giá gần 1,1 tỷ USD để xây dựng dự án đường cao tốc.

Đây là ví dụ cụ thể về một khoản đầu tư lớn cho cơ sở hạ tầng giao thông để cải thiện hành lang giao thông mà qua thời gian đã cho thấy sự gia tăng đáng kể các hoạt động kinh tế, đầu tư, và cơ hội kinh tế ở Lào Cai cũng như các tỉnh khác, với một số hiệu ứng lan tỏa tiếp nối. Khoản đầu tư cho đường cao tốc đã rút ngắn thời gian đi lại từ hơn 10 tiếng xuống còn 4 tiếng. Không chỉ rút ngắn thời gian đi lại, mà còn giảm đáng kể chi phí vận tải từ 20 đến 30%, và lượng hàng hóa và hành khách lưu thông trên tuyến hành lang này cũng đã gia tăng đáng kể. Và các hoạt động đầu tư thêm để mở rộng những con đường kết nối với tuyến cao tốc này đã giúp tăng hơn nữa tính kết nối liên thông và giúp lan tỏa những lợi ích hữu hình từ tuyến đường này rộng rãi hơn.

Thu nhập bình quân đầu người cũng đã tăng lên đáng kể. Lào Cai đã tăng mức thu nhập bình quân đầu người từ 360 USD/người trong năm 2008 lên tới 1.939 USD/người trong năm 2016; tương đương mức tăng gấp 5 lần. Vĩnh Phúc tăng từ 890 USD lên 3.185 USD, tương đương 3,5 lần. Phú Thọ tăng gấp ba, từ 420 USD lên tới 1.341 USD; và Yên Bái tăng từ 360 USD lên 1.228 USD, bằng 3,4 lần. Tỷ lệ nghèo chung của vùng đã giảm từ 51,9% trong năm 2004 xuống còn 15% vào năm 2016.

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới thành lập và việc làm trong vùng cũng đã tăng trung bình 128% so với mục tiêu là 70%. Kim ngạch thương mại xuyên biên giới hàng năm đã tăng từ 477 triệu USD năm 2006 lên tới hơn 800 triệu USD năm 2016. Tất cả sự tăng trưởng này là nhờ rất nhiều yếu tố có liên quan tới nhau. Nhưng tuyến đường cao tốc có vai trò xúc tác, và là ví dụ về việc tạo ra hoặc cải thiện một hành lang giao thông – nhưng với tầm nhìn rộng hơn của chính phủ – để tạo ra một hành lang giao thông giúp phát triển một hành lang kinh tế. Nhu cầu về các hàng hóa và dịch vụ đa dạng hơn đã nảy sinh sau đó bên trong hành lang kinh tế. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi khu vực đều được hưởng lợi như nhau. Vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Nhưng đây là minh chứng cho thành công để từ đó tiếp tục triển khai.

Một số khoản đầu tư bổ sung bắt nguồn từ tuyến cao tốc này bao gồm Dự án Kết nối giao thông các tỉnh miền núi phía Bắc, được phê duyệt năm 2018 và đang được triển khai. Dự án đang cải thiện và nâng cấp hai tuyến đường với tổng chiều dài 198km, kết nối một số thị xã và huyện thuộc các tỉnh Lai Châu, Lào Cai và Yên Bái vào tuyến cao tốc Nội Bài – Lào Cai. Các con đường hiện tại đang đi qua địa hình khó khăn, với núi cao hoặc sông lớn, các khúc cua gấp và độ dốc cao. Tốc độ di chuyển trung bình là 25km/h và một số đoạn không thể lưu thông vào một số thời điểm trong năm. Do vậy, các hoạt động cải tạo lớn đang được tiến hành sẽ đáp ứng sự gia tăng lưu lượng giao thông.

Một dự án khác của ADB, Dự án Phát triển cơ sở hạ tầng du lịch hỗ trợ cho tăng trưởng toàn diện khu vực Tiểu vùng Mê-kông mở rộng, được phê duyệt năm 2018 và cũng đang được triển khai, giúp nâng cấp các tuyến đường nông thôn và giải quyết những vấn đề môi trường nảy sinh từ hoạt động du lịch gia tăng tại các tỉnh Điện Biên, Hà Tĩnh và Lào Cai.

Dự án Cơ sở hạ tầng cơ bản cho tăng trưởng đồng đều là một ví dụ khác về việc cải thiện tính kết nối giao thông cũng như cấp nước và hỗ trợ bổ sung cho nông nghiệp địa phương ở các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn và Lạng Sơn.

Dự án Phát triển các đô thị hành lang Tiểu vùng Mê-kông mở rộng, hiện cũng đang được triển khai, hỗ trợ sự phát triển của các đô thị và gia tăng du lịch, tạo ra nhu cầu mở rộng các dịch vụ cấp nước và xử lý nước thải ở các tỉnh Bắc Giang, Quảng Ninh và Lào Cai.

Sản lượng nông nghiệp cũng gia tăng trong khu vực, với tính kết nối được cải thiện cho phép vận chuyển các đầu vào sản xuất một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn tới các khu vực này, cũng như các sản phẩm đầu ra từ đây, tất cả đều với chi phí vận tải thấp hơn, và một dự án khác cũng góp phần vào sự tăng trưởng này.

Việc nêu ra một số dự án tiếp nối trong vùng này sau khi có tuyến cao tốc Nội Bài – Lào Cai muốn làm nổi bật một điểm rằng do tăng trưởng kinh tế bên trong hành lang đã gia tăng, cần đầu tư nhiều hơn nữa vào việc cải thiện đường giao thông, du lịch, đô thị, nông nghiệp và cơ sở hạ tầng khác để bắt kịp tốc độ tăng trưởng này. Chính phủ đã đầu tư đáng kể theo như quy hoạch tổng thể để hỗ trợ tất cả những khía cạnh này.

Một dự án của ADB vượt qua biên giới với Trung Quốc đã giúp hỗ trợ tính kết nối khu vực Tiểu vùng Mê-kông mở rộng và thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam. Dự án này được triển khai từ năm 2016, bao gồm việc xây dựng một trung tâm đào tạo để đào tạo ngoại ngữ và dạy nghề cho các công nhân Trung Quốc và Việt Nam, cũng như các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nó cũng bao gồm việc hỗ trợ cơ sở hạ tầng lô-gis-tíc và một trung tâm dịch vụ thương mại biên giới ở Bằng Tường, đối diện với Lạng Sơn, và một khu trưng bày hợp tác lao động xuyên biên giới tại Bằng Tường.

Tóm lại, kết nối giao thông được cải thiện tạo ra các hành lang giao thông mà, với sự hỗ trợ của một Quy hoạch tổng thể, có thể kết hợp với các hình thức hỗ trợ và đầu tư khác để trở thành những hành lang kinh tế thúc đẩy phát triển và tăng trưởng. Do tính kết nối gia tăng, các hoạt động đầu tư trọng điểm của địa phương kết hợp với quy hoạch và đầu tư của vùng có thể giúp lan tỏa lợi ích trên toàn bộ hành lang kinh tế.

Ở vùng trung du và miền núi phía Bắc xinh đẹp với rất nhiều thắng cảnh thiên nhiên và đa dạng dân tộc này, du lịch bền vững có thể tạo việc làm và đa dạng hóa nền kinh tế. Do vậy, chúng tôi rất vui mừng được làm việc cùng với chính phủ để tiếp tục hỗ trợ nhiều hơn nữa cho vùng này, bao gồm tăng cường cơ sở hạ tầng đô thị và du lịch bền vững cho Hòa Bình và Lào Cai, và cơ sở hạ tầng xanh ở Lạng Sơn, Sơn La, Thái Nguyên và Yên Bái, và sẵn sàng hỗ trợ các nơi khác.

Cùng với các đối tác phát triển khác, chúng tôi mong muốn được tiếp tục hỗ trợ cho vùng Trung du và miền núi phía Bắc trong công cuộc phát triển của vùng, hướng tới mục tiêu cuối cùng là xây dựng vùng Trung du và miền núi phía Bắc thịnh vượng, đồng đều và có khả năng thích ứng.

****

Ông Nakajima Takeo – Trưởng Đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản JETRO HANOI: 

 JETRO được thành lập tại Hà Nội năm 1993 với vai trò là cơ quan xúc tiến đầu tư và thương mại và sẽ kỷ niệm 30 năm thành lập trong năm sau.

Nhật Bản và Việt Nam cũng sẽ kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao trong năm 2023. Tôi tin rằng quan hệ 2 nước sẽ tiếp tục phát triển hơn nữa.

Ông Nakajima Takeo – Trưởng Đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản JETRO HANOI (Ảnh: Đức Trung)

Đến cuối năm 2021, kết quả cuộc khảo sát hơn 1.700 doanh nghiệp Nhật Bản cho thấy Hoa Kỳ xếp thứ nhất và Việt Nam đứng thứ 2 (Trung Quốc đứng thứ  3) trong danh sách “Các quốc gia sẽ tăng cường mở rộng đầu tư kinh doanh”. Việt Nam cũng đứng thứ 4 trong Danh sách các “Địa điểm xuất khẩu quan trọng nhất” đối với Nhật Bản. Điều này thực sự ấn tượng khi Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 35 thế giới mà lại trở thành một điểm đến quan trọng cả về đầu tư và xuất khẩu.

Sau hơn 2 năm trải qua giai đoạn phòng, chống đại dịch Covid-19, nền kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn phục hồi quan trọng và được rất nhiều doanh nghiệp Nhật Bản đánh giá cao khi nhìn sang cơ hội đầu tư vào Việt Nam. Nhìn chung những chủ trương nới lỏng đáng kể các hạn chế di chuyển qua biên giới, sự phục hồi mạnh hoạt động xuất khẩu sang Hoa Kỳ và châu Âu cùng sự phục hồi của thị trường nội địa và các thị trường mới như chuyển đổi số hay kinh tế không Các-bon. Đặc biệt quyết tâm của Chính phủ nhằm thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra cho Việt Nam trở thành một địa điểm đầu tư hấp dẫn trong khu vực.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, để kêu gọi đầu tư được mở rộng một cách mạnh mẽ hơn, vẫn còn nhiều hạn chế trong môi trường đầu tư kinh doanh cần được cải thiện nhiều hơn. Trong thời gian qua, để giải quyết những vấn đề này, các doanh nghiệp Nhật Bản đã thực hiện nhiều giải pháp như sau:

1. Đa dạng hóa nguồn cung cấp hàng hóa, tìm kiếm những doanh nghiệp Việt Nam hoạt động hiệu quả.

2. Đảm bảo việc dự trữ và sử dụng hiệu quả năng lượng trong sản xuất; đảm bảo điện thông qua các nguồn điện tự phân phối và giảm chi phí năng lượng.

3. Đảm bảo nguồn nhân lực (tăng lương và phúc lợi xã hội), nội địa hóa nguồn nhân lực.

4. Mở rộng các cơ sở phục vụ chuỗi cung ứng tại các thành phố trong khu vực

5. Khởi động chuyển đổi số và các hoạt động kinh doanh mới

Nhìn chung, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nhật Bản năm 2021 đã gấp đôi so với 10 năm trước – năm 2011.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Nhật Bản cũng đã tăng, theo đó đưa số lượng thành viên JCCI (Phòng Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam) đạt hơn 2.000, lớn nhất trong các quốc gia ASEAN. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đánh giá cao môi trường kinh doanh tại Việt Nam, nhưng các quốc gia láng giềng cũng đang liên tục thay đổi cơ chế, chính sách để cạnh tranh với Việt Nam.

Do đó, đây chính là thời điểm quan trọng để thúc đẩy thu hút đầu tư. Các doanh nghiệp FDI mong muốn tìm kiếm các đối tác Việt Nam tốt. Đồng thời, cần phát triển các khu công nghiệp chức năng và cơ sở hạ tầng phù hợp cho các trung tâm logistuc và trung tâm dữ liệu. Ngoài ra, cần đảm bảo cung cấp nguồn điện và có chất lượng để phục vụ cho các hoạt động sản xuất tạo ra giá trị cao bên cạnh việc phát triển nguồn nhân lực.

****

Ông Lee Jong Seob, Chủ tịch Kotra khu vực Đông Nam Á và Châu Đại Dương, Tổng Giám đốc Văn phòng Kotra Hà Nội: 

 2022 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu mốc kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1992, thương mại song phương đã tăng hơn 160 lần trong 30 năm qua, và Hàn Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam.

Khoảng 79,2 tỷ USD đã được đầu tư vào hơn 9.300 dự án của Hàn Quốc tại Việt Nam. Cho đến nay, dòng vốn đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam, với trọng tâm là các lĩnh vực sản xuất và xây dựng, bất động sản, khoa học công nghệ, và đã đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam.

Ông Lee Jong Seob, Chủ tịch Kotra khu vực Đông Nam Á và Châu Đại Dương, Tổng Giám đốc Văn phòng Kotra Hà Nội (Ảnh: Đức Trung)

Đặc biệt, chỉ riêng lĩnh vực sản xuất, tổng mức xuất khẩu của các công ty Hàn Quốc chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, trở thành trụ cột của hợp tác kinh tế song phương. Tuy nhiên, đáng tiếc là cho đến nay, các dự án FDI Hàn Quốc vẫn tập trung chủ yếu ở những thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận.

Tại các tỉnh khu vực trung du và miền núi phía Bắc, ngoại trừ Thái Nguyên và Phú Thọ, có rất ít dự án FDI đã được triển khai, kể cả ở Lào Cai, nơi tổ chức sự kiện hôm nay.

Mặc dù chưa được nhiều nhà đầu tư biết đến, nhưng Vùng TD&MNBB Việt Nam có tiềm năng đáng kể để phát triển du lịch cũng như nông – lâm nghiệp, nhờ diện tích rừng lớn cùng với nguồn tài nguyên dồi dào.

Hơn nữa, việc gần với biên giới Trung Quốc mang lại cho khu vực này sự thuận lợi nhất định trong logistics và giao thông vận tải. Lợi thế địa lý có thể giúp cho khư vực này trở thành một cơ sở sản xuất nội địa để hướng tới thị trường mục tiêu Trung Quốc.

Tuy nhiên, mặc dù có những thuận lợi trong khía cạnh kinh tế và xã hội, khu vực này vẫn cần thêm sự đầu tư phát triển từ cả chính phủ và khối tư nhân. Trên hết, cần ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải để đảm bảo khả năng tiếp cận. Nếu hoạt động logistics và vận tải đến cảng xuất khẩu Hải Phòng thuận tiện và ổn định thì sẽ thu hút được nhiều đầu tư vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ.

Gần đây, nền nền kinh tế và công nghiệp toàn cầu đang phải đối mặt với nhiều cuộc khủng hoảng khác nhau. Sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng nguyên liệu, khủng hoảng năng lượng và lương thực, v.v. đang nổi lên như những vấn đề nghiêm trọng.

Trước tình hình đó, nếu khai thác được hết tiềm năng phát triển của khu vực Trung du và miền núi phía Bắc, tôi nghĩ đây sẽ là cơ hội khác để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường châu Á và toàn cầu.

Nhìn chung, có nhiều cơ hội đầu tư cho Hàn Quốc tại vùng trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam Việc hợp tác với các công ty Hàn Quốc có thể mang lại hiệu quả tích cực trong các lĩnh vực như khai thác tài nguyên kim loại hiếm, chế biến và xuất khẩu lâm, nông sản, đầu tư sản xuất, thương mại dịch vụ… ở khu vực giáp với Trung Quốc.

Đặc biệt, đối với lĩnh vực nông lâm nghiệp vốn là ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam, các tỉnh vùng trung du và miền núi phía Bắc với đặc trưng là địa hình cao, có lợi thể tự nhiên để canh tác các loại cây có giá trị gia tăng lớn.

Để nâng cao sản lượng nông nghiệp và tăng năng suất ở Việt Nam, cần xây dựng các tổ hợp nông nghiệp công nghệ cao với các công nghệ mới nhất. Nhìn chung, việc hợp tác đầu tư với công ty nông nghiệp thông minh với công nghệ tiên tiến của Hàn Quốc sẽ mang lại hiệu quả đầu tư tốt.

Bên cạnh đó, có những lo ngại về sự độc quyền và thiếu hụt các nguồn lực quan trọng được sử dụng trong các ngành công nghiệp như chất bán dẫn và ô tô. Nếu doanh nghiệp hai nước có thể cùng nhau xây dựng dự án phát triển tài nguyên của Việt Nam, vốn có trữ lượng dồi dào, đây sẽ là một chất xúc tác nữa cho hợp tác kinh tế và phát triển công nghiệp song phương.

****

Ông Honna Hitoshi, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Erex (Nhật Bản): 

Tôi xin cảm ơn và rất trân trọng khi là doanh nghiệp được phát biểu tại Hội nghị ngày hôm nay. Ở phần câu chuyện về tiềm năng của năng lượng sinh khối, tôi xin nhấn mạnh rằng Việt Nam có rất nhiềm tiềm năng bền vững, phong phú trong việc phát triển loại hình năng lượng này.

Từ trước tới nay, Việt Nam đang phụ thuộc khá nhiều vào nguyên liệu than, nhưng rõ ràng hiện nay, giá than ngày càng cao với giá lên tới 400 USD/tấn, và trong tương lai khi nguồn nguyên liệu này cạn kiện, giá chắc chắn sẽ không thể giảm xuống được, gây áp lực cho chi phí phát triển kinh tế – xã hội tại Việt Nam.

Ông Honna Hitoshi, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Erex (Nhật Bản)

Trong chuyến công tác của Thủ tướng hồi đầu năm, tôi đã có cơ hội trình bày về những kinh nghiệm của mình trong việc định hướng phát triển năng lượng sinh khối tại Việt Nam. Nhìn chung, nếu sử dụng nguyên liệu sinh khối cho việc phát điện và làm nhiên liệu sẽ tạo ra nhiều ý nghĩa như cung cấp điện năng ổn định/khử các bon, có tiềm năng sử dụng làm nguồn tải nền của Việt Nam trong quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng thời thể chuyển đổi tài nguyên sinh khối chưa sử dụng sang năng lượng điện năng.

Trên cơ sở nghiên cứu và được cấp vốn của ngân hàng ADB, chúng tôi đã triển khai 1 số nghiên cứu về năng lượng sinh khối và đã có kế hoạch đầu năm sau có thể triển khai ngay nhà máy sản xuất điện từ năng lượng sinh khối tại Việt Nam. Thực tế, Việt Nam rất có tiềm năng trong việc phát triển nhiên liệu sinh khối mới. Hiện đang EREX liên doanh cùng T&T Group đã làm việc cùng các tỉnh và đang đề xuất với Chính phủ 14 dự án tại 12 tỉnh với tổng công suất 1.119 MW.

Nhìn chung, sử dụng nhiên liệu như than để làm khí đốt sản xuất điện ngày càng tăng và tốn kém chi phí. Trong khi Việt Nam có nguồn nhiên liệu sinh khối dồi dào, nếu tận dụng tốt có thể tạo ra năng lượng với chi phí rẻ mà lại bảo vệ môi trường.

Sau khi khảo sát một số nhà máy nhiệt điện, chúng tôi đề xuất chuyển dịch nhà máy nhiệt điện than sang đốt trộn đồng sinh khối. Thực tế có rất nhiều nhà máy sử dụng lò CFB, rất phù hợp đốt trộn sinh khối. Thay vì đóng vửa, phá dỡ những tài sản này, hoàn toàn có thể dùng sinh khối để tận dụng hiệu quả những nhà máy này. Như vậy, không chỉ đạt mục tiêu khử các-bon mà còn có thể tạo ra nhiều giá trị khác như tăng tỷ lệ tự cung cấp năng lượng, đảm bảo cấp điện ổn định, …

Chúng tôi đã khảo sát ở nhiều khu vực, thì nhiều khu vực nhiều loại nhiên liệu sinh khối chưa được sử dụng và vì vậy chúng tôi thấy rằng ở cả 2 miền (Bắc, Nam) đều có thể phát triển các nhiên liệu sinh khối. Chẳng hạn như ở miền Bắc đang triển khai khảo sát đánh gián để tận dụng hữu ích các phụ phẩm từ lâm nghiệp như keo, bạch đàn,… miền Nam, đang xem xét sử dụng chủ yếu là vỏ trấu, rơm rạ,…hoặc phát triển trồng cây siêu cao lương chủ yếu ở miền Nam. 4 tỉnh đã bắt đầu thí điểm triển khai, bao gồm Tây Ninh, Phú Yên, Long An, Bình Thuận.  

Từ gợi ý của Bộ trưởng Lê Minh Hoan về ý tưởng cộng đồng địa phương kết hợp với chính quyền để khai thác, bảo về nguồn tài nguyên rừng thì tôi nghĩ rằng việc kết hợp cộng đồng địa phương trong thúc đẩy phát triển nhiên liệu sinh khối là rất tốt. Đây cũng là mục tiêu mà việc phát triển năng lượng sinh khối theo đuổi khi vừa giữ gìn sự bền vững của môi trường, vừa gia tăng kế sinh nhai cho người dân địa phương.

Hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới giao thông liên vùng, kết nối hàng không, cảng biển, và điều này sẽ tạo điều kiện cho việc triển khai các dự án năng lượng sinh khối thuận tiện và hiệu quả hơn.

Nhìn sang bài toán Mỹ, chúng ta thấy trước 2008, quốc gia là nhập khẩu năng lượng, nhưng sau đó đã tự chủ và thành nước xuất khẩu được. Đây là gợi ý rằng khi có sự tham gia tổng thể cả Chính phủ và người dân, Việt Nam với lợi thế của mình hoàn toàn có thể có cơ hội để tận dụng tài nguyên và tận dụng lợi thế cho việc phát triển năng lượng tại Việt Nam.

****

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khi phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị đã một lần nữa nhấn mạnh, Khu vực Trung du và miền núi phía Bắc có rất nhiều tiềm năng, núi non hùng vĩ, bản sắc văn hóa phong phú…

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, Khu vực Trung du và miền núi phía Bắc có rất nhiều tiềm năng phát triển (Ảnh: Đức Trung)

“Nhưng tiềm năng lớn mà tại sao lại chưa phát huy được?”, Thủ tướng đặt câu hỏi và cho rằng, nguyên nhân là do tiềm năng lớn nhưng cơ chế thì hạn hẹp. Và đây chính là mâu thuẫn phát triển ở nhiều vùng.

“Mà cơ chế chính là do chúng ta. Phải xây dựng được cơ chế đặc thù dựa trên tiềm năng phát triển của từng vùng, từng địa phương. Lần này, Bộ Chính trị rất quyết tâm xây dựng cơ chế đặc thù để các địa phương phát triển”, Thủ tướng nhấn mạnh.

Ở một góc độ khác, Thủ tướng cũng thẳng thắn rằng, chưa phát triển được vì còn trông chờ, ỷ lại ở Trung ương, mặc dù thời gian qua, nhiều địa phương phát triển rất tốt.

“Thể chế, chính sách phải là do chúng ta. Phải làm sao biến không thành có, biến cái không thể thành có thể. Khó như chống quân xâm lược, giải phóng đất nước cha ông ta còn làm được cơ mà”, Thủ tướng nói.

Thủ tướng cũng nhấn mạnh rằng, các địa phương chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của vùng, tiềm năng chưa biến thành động năng, tiềm lực, nguồn lực.

“Chúng ta phải tự tin đi lên, vì có tiềm năng, có nhân dân ủng hộ, có bạn bè quốc tế hỗ trợ”, Thủ tướng nói.

Về các nhiệm vụ phải tập trung thực hiện trong thời gian tới, Thủ tướng nhấn mạnh phải xác định trọng tâm, trọng điểm để thực hiện. Bởi nếu cứ dàn trải thì không bao giờ làm được việc lớn cả.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và lãnh đạo các bộ, địa phương tại Hội nghị (Ảnh: Đức Trung)

Cụ thể, theo Thủ tướng, trước tiên, phải tập trung cho công tác chống dịch, đầu tư cho hệ thống y tế.

Thứ hai, phải tập trung cho công tác quy hoạch vùng. Thủ tướng nhấn mạnh, đây là nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm, phải tập trung làm. Quy hoạch phải đi trước một bước, có tư duy đổi mới và tầm nhìn chiến lược, dựa trên tiềm năng, lợi thế của từng địa phương.

Thứ ba, là tập trung cho giải ngân vốn đầu tư công, để có thể phát triển hạ tầng cơ sở, đặc biệt là hạ tầng giao thông, trong đó có đầu tư cho sân bay.

Theo Thủ tướng, lần này, Quốc hội đã ủng hộ, dành gần 1 triệu tỷ đồng cho hạ tầng giao thông ở các tỉnh, do vậy, các địa phương phải tập trung làm. Đồng thời, huy động nguồn lực, lấy nguồn lực nhà nước làm cú hích để kêu gọi đầu tư của tư nhân, đầu tư theo hình thức hợp tác công – tư PPP.

Thứ tư, phải tập trung cho phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, vì hiện nay, năng suất lao động còn thấp.

Theo Thủ tướng, đầu tư cho hạ tầng, cho nhân lực chính là đầu tư cho phát triển. Đây cũng chính là các đột phá chiến lược của Việt Nam.

Thủ tướng có lời nhắn gửi tới các địa phương cũng như các doanh nghiệp, các nhà đầu tư đã cam kết đầu tư vào Vùng. Đó là “đã hứa là phải làm”, vì nhân dân trông đợi (Ảnh: Đức Trung)

Nhiệm vụ tiếp theo, Thủ tướng khẳng định, phải quan tâm tới “tam an”, là an ninh trật tự, an dân, an sinh. Đồng thời, đảm bảo an ninh, quốc phòng, đây là nhiệm vụ rất quan trọng.

Kết thúc bài phát biểu, Thủ tướng có lời nhắn gửi tới các địa phương cũng như các doanh nghiệp, các nhà đầu tư đã cam kết đầu tư vào Vùng. Đó là “đã hứa là phải làm”, vì nhân dân trông đợi.

Thủ tướng cho biết, ông đã tham dự nhiều hội nghị xúc tiến đầu tư, cam kết đầu tư rất nhiều nhưng nhiều năm không thấy đâu, người dân thất vọng.

“Đã hứa phải làm, làm dựa trên hài hòa lợi ích, sẻ chia rủi ro”, Thủ tướng nhấn mạnh.

****

Sau phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã tiếp thu và cam kết sẽ làm hết sức để thực hiện tốt nhất Chương trình hành động của Chính phủ, đưa Vùng Trung du và miền núi phía Bắc phát triển bền vững trong thời gian tới.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cam kết thực hiện tốt nhất Chương trình hành động của Chính phủ, đưa Vùng Trung du và miền núi phía Bắc phát triển bền vững (Ảnh: Đức Trung)

“Với sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, cùng với các tiềm năng, cơ hội và với sự quyết tâm, nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và người dân trong Vùng, chúng ta có thể biến khó khăn, thách thức thành cơ hội mới, biến những tiềm năng, lợi thế thành động lực phát triển để Vùng Trung du và miền núi phía Bắc thực sự phát triển đột phá, đón nhận làn sóng đầu tư mới, đạt được mục tiêu phát triển xanh, bền vững và toàn diện trong thời kỳ tới, người dân được hạnh phúc với một cuộc sống tốt đẹp hơn”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.

****

Kết thúc Hội nghị, Thủ tướng và lãnh đạo các bộ ,ngành đã chứng kiến lễ ký Biên bản ghi nhớ (MOU), Biên bản hợp tác (MOC) và Thư bày tỏ quan tâm tài trợ giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các đối tác phát triển về cung cấp tài chính cho các dự án vùng Trung du, miền núi phía Bắc với tổng giá trị 1,55 tỷ USD.

Cùng với đó, lãnh đạo các địa phương cũng đã trao chứng nhận đăng ký đầu tư, chủ trương đầu tư, biên bản ghi nhớ đầu tư dự án cho nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước.